MỘT VIỆT NAM “BỨT PHÁ” SAU 35 NĂM ĐỔI
MỚI
(Phần 2)

Bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền quốc
gia, chung tay gìn giữ hòa bình thế giới
Nhìn lại 35 năm đường lối Đổi mới
của Đảng Cộng sản Việt Nam trên lĩnh vực quân sự, quốc phòng
- an ninh, Việt Nam đã đạt được rất nhiều thành tựu nổi bật. Thành tựu đầu tiên
đó chính là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ
của Tổ quốc, lợi ích quốc gia-dân tộc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế
độ xã hội chủ nghĩa; giữ vững ổn định chính trị, môi trường hòa bình để xây
dựng và phát triển đất nước.
Có thể nói, đây là kết quả khẳng định
đường lối đổi mới của Đảng, trong đó có đổi mới về quân sự, quốc phòng là đúng
đắn, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam. Theo lời của Tổng bí
thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng phát biểu trong Hội nghị
Quân chính toàn quân - một Hội nghị quan trọng tổng kết công tác năm 2020 và
bàn những biện pháp để tiếp tục thực hiện nhiệm vụ năm 2021. Tổng bí thư, Chủ tịch
nước nhấn mạnh:
“Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng đã
thực hiện tốt chức năng tham mưu với Đảng, Nhà nước về quân sự, quốc phòng; thường
xuyên nắm chắc tình hình, nhạy bén trong công tác nghiên cứu, dự báo, kịp thời
đề xuất các chủ trương, đối sách đúng đắn, xử lý hiệu quả các tình huống, không
để bị động, bất ngờ. Chủ động tham mưu bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo và
hoạt động kinh tế biển; phối hợp chặt chẽ với các ban, bộ, ngành Trung ương và
các địa phương triển khai thực hiện có hiệu quả các nghị quyết, kết luận của Bộ
Chính trị về chiến lược quân sự, quốc phòng...Trước tình hình thiên tai, đại dịch
Covid-19 diễn biến hết sức phức tạp, Bộ Quốc phòng đã chỉ đạo toàn quân chủ động
xây dựng kế hoạch, phương án, chuẩn bị lực lượng, phương tiện, phối hợp chặt chẽ
với các cấp, các ngành, các địa phương ứng phó kịp thời với các tình huống.”
Nền quốc phòng toàn dân tại Việt Nam được
xây dựng ngày càng vững mạnh toàn diện; có bước phát triển mới cả về bề rộng và
chiều sâu, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ vững chắc đất nước Việt Nam xã hội
chủ nghĩa. Từ đó, phát huy được tiềm lực quốc phòng - an ninh của chính Việt
Nam. Hội nghị Giới thiệu trưng bày sản phẩm quốc phòng và kinh tế 2020 do Tổng
cục Công nghiệp quốc phòng Việt Nam nghiên cứu, sản xuất vừa qua đã hé lộ không
ít vũ khí tối tân mà Quân đội nhân dân Việt Nam đang sở hữu.
Đưa công nghiệp quốc phòng thành mũi nhọn
công nghiệp quốc gia là điều mà lãnh đạo Bộ Quốc phòng Việt Nam nhấn mạnh tại Hội
nghị trên. Phát biểu tại buổi lễ, nhấn mạnh mục tiêu để Tổng cục Công nghiệp quốc
phòng hoàn thành chức năng, nhiệm vụ được giao, Đại tướng Ngô Xuân Lịch, Ủy
viên Bộ Chính trị, Phó Bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc
phòng yêu cầu:
“Đẩy mạnh ứng dụng thành tựu, tiến bộ
khoa học công nghệ, đi sâu vào các công nghệ mũi nhọn trong nghiên cứu, chế tạo,
sản xuất các sản phẩm, quan tâm đầu tư phát triển công nghệ nền, công nghệ lõi,
công nghệ vật liệu để chủ động trong sản xuất, bảo đảm các sản phẩm quốc phòng
có chất lượng, đa dạng, lưỡng dụng và tính cạnh tranh cao trên thị trường”.
Theo Báo cáo về năng lực nghiên cứu,
thiết kế, chế tạo, sản xuất vũ khí trang bị kỹ thuật và sản xuất sản phẩm lưỡng
dụng của Tổng cục Công nghiệp quốc phòng, Việt Nam cũng sản xuất nhiều thiết bị,
vũ khí “Make in Vietnam”. Không chỉ dừng lại ở đó, Việt Nam cũng đã tự
sản xuất thành công được nhiều tàu quân sự. Đặc biệt, theo báo cáo của Tổng Cục,
với năng lực đã được đầu tư, hiện nay các đơn vị đóng tàu quân sự có khả năng
đóng mới các tàu tên lửa thế hệ mới, tàu chống ngầm, tàu mặt nước của Hải quân,
Biên phòng, Cảnh sát biển, Kiểm ngư sửa chữa đến cấp vừa cho tàu ngầm Kilo 636,
cải hoán, hiện đại hóa, sửa chữa lớn và đảm bảo kỹ thuật cho tàu hộ vệ tên lửa,
tàu chống ngầm và các loại tàu mặt nước cho lực lượng chiến đấu và thực thi
pháp luật trên biển.
Ngoài năng lực tự sản xuất và cung cấp
một số thiết bị, vũ khí cho lực lượng quân đội, Việt Nam xuất khẩu các tàu ra
nhiều nước, như: Tàu cung ứng thuyền viên cho Tập đoàn DAMEN (Hà Lan), tàu cứu
hộ tàu ngầm và tàu chở dầu cho Hải quân Australia, tàu đánh bắt cá ngừ đại
dương cho Pháp, tàu công trình, tàu huấn luyện máy bay, du thuyền, tàu kéo cảng
và nhiều sản phẩm tàu xuất khẩu đa dạng khác. Những năm gần đây, doanh thu sản
phẩm kinh tế chiếm tỷ trọng bình quân trên 60% tổng doanh thu toàn Tổng cục; đạt
mức tăng trưởng bình quân 10%/năm.
Năm 2013, Trung tâm Gìn giữ hòa bình
Việt Nam chính thức được thành lập. Năm 2014, hai sĩ quan Việt Nam đầu tiên
tham gia HĐ GGHB LHQ được cử tới Phái bộ Nam Sudan với vai trò sĩ quan liên lạc.
Từ năm 2014 đến nay, Việt Nam đã tham gia lực lượng GGHB LHQ theo hình thức từ
cá nhân đến đơn vị. Đối với hình thức cá nhân, Việt Nam đã cử 50 lượt sĩ quan
tham gia tại hai phái bộ là Cộng hòa Trung Phi, Nam Sudan và
trụ sở LHQ. Đối với hình thức đơn vị, Việt Nam đã cử hai lượt bệnh viện dã chiến
cấp 2, với 126 sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp tham gia. Các lĩnh vực mà Việt
Nam đã và đang tham gia trong lực lượng GGHB LHQ là: Tham mưu, hậu cần, quân y,
quan sát viên quân sự. Hiện nay, LHQ đang tiếp tục đề nghị Việt Nam cử thêm lực
lượng và mở rộng sang các lĩnh vực khác như: Công binh, cảnh sát, quan sát viên
và giám sát bầu cử.
Cùng với việc thực hiện tốt các hoạt động
chuyên môn theo nhiệm vụ được giao, các sĩ quan "mũ nồi xanh" Việt
Nam còn tích cực làm công tác dân vận như tham gia dạy học, hướng dẫn người dân
bản xứ trồng rau xanh, hướng dẫn các bà mẹ chăm sóc trẻ nhỏ đúng cách, may khẩu
trang phòng, chống dịch Covid-19 tặng đồng đội và người dân địa phương... đã tạo
ấn tượng đẹp về Bộ đội Cụ Hồ, về đất nước và con người Việt Nam.
Theo Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh, Thứ
trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam, nhận xét lực lượng “mũ nồi xanh” của Quân đội
nhân dân Việt Nam luôn hoàn thành tốt và xuất sắc nhiệm vụ và đảm bảo an toàn
tuyệt đối. Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh khẳng
định:
“Đây là những kết quả thiết thực, được
lượng hóa của lực lượng GGHB LHQ của Quân đội nhân dân Việt Nam, góp phần vào
việc hiện thực hóa kế sách bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa mà Đảng, Nhà nước và
Quân đội đã xác định và đang triển khai thực hiện. Qua đó, góp phần khẳng định
vị thế, uy tín, từng bước hình thành yếu tố “quyền lực mềm” trên trường quốc tế;
chủ động ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; phát hiện sớm
và xử lý kịp thời những nhân tố bất lợi”.
Tháng 6/2018, Liên hợp quốc đã công
nhận Cục GGHB Việt Nam là một trong bốn Trung tâm Huấn luyện quốc tế ở khu vực
để triển khai huấn luyện theo Chương trình đối tác 3 bên. Trong ba năm
(2018-2020), Việt Nam đã chủ trì 3 khoá huấn luyện cho nhiều sĩ quan quốc tế và
trong nước về vận hành trang bị công binh hạng nặng. Đây chính là những thành
tựu ấn tượng, khẳng định uy tín và vị thế Việt Nam trên trường quốc tế.
Tăng cường đa phương hóa, chủ động hội
nhập quốc tế
Trong sự nghiệp Đổi mới và hội nhập
quốc tế sâu rộng, Ngoại giao Việt Nam được trao sứ mệnh hoàn toàn mới, góp phần
quan trọng tạo dựng và giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, bảo vệ vững chắc
Tổ quốc. Đồng thời linh hoạt, sáng tạo tìm ra phương cách mới thúc đẩy hợp tác
quốc tế, tạo mọi điều kiện quốc tế thuận lợi để xây dựng và phát triển đất
nước, góp phần quan trọng nâng cao thế và gia tăng thế lực cho đất nước.
“Là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên
có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế” là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước đã
giúp Việt Nam đóng góp một cách chủ động, tích cực, có trách nhiệm vào hòa
bình, an ninh và thịnh vượng chung của khu vực và thế giới. Phát biểu tại Lễ kỷ
niệm 75 năm Ngày thành lập ngành Ngoại giao (28/8/1945
- 28/8/2020) và Đại hội thi đua yêu nước giai đoạn 2020-2025 vừa qua, Thủ
tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc, khẳng định:
"Đến nay, từ một nước bị bao vây, cấm
vận, Việt Nam đã thiết lập quan hệ rộng mở với 189 quốc gia thành viên của Liên
hợp quốc, xây dựng được mạng lưới 30 đối tác chiến lược và đối tác toàn diện,
trong đó có tất cả các nước lớn, 17/20 nước G20, toàn bộ các nước ASEAN"
Theo Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, trong cuộc
chiến chống COVID-19, ngành Ngoại giao đã triển khai tốt “ngoại giao COVID”,
“ngoại giao trực tuyến” với kết quả nổi bật là từ tháng 2/2020 đến nay đã có 30
Hội nghị cấp cao trực tuyến, điện đàm Lãnh đạo các nước, các tổ chức quốc tế
lớn… Bộ Ngoại giao cũng phối hợp tổ chức nhiều chuyến bay đón gần 30.000 công
dân Việt Nam từ các quốc gia ảnh hưởng nặng nề với COVID-19 về nước. Công tác
đối ngoại cũng đã phát huy “tinh thần đoàn kết quốc tế” trong phòng chống dịch,
hỗ trợ trang thiết bị y tế do Việt Nam sản xuất cho nhiều quốc gia.
Từ một quốc gia bị cô lập và cấm vận,
công tác ngoại giao của Việt Nam đã phá vỡ mọi rào cản, mang Việt Nam lại gần
với thế giới. Hiện nay, Việt Nam đã trở thành mắt xích quan trọng trong nhiều
liên kết kinh tế khu vực và toàn cầu, tham gia nhiều hiệp định thương mại tự do
quan trọng (như CPTPP, EVFTA…), qua
đó tạo ra động lực mới cho phát triển.
Xuất phát từ việc chỉ “tham gia”, hiện
nay, Việt Nam đã mạnh dạn và chủ động “định hình cấu trúc và luật chơi mới”
trong và ngoài khu vực. Với vai trò Chủ tịch ASEAN 2020, Việt Nam đã chuẩn bị
kỹ lưỡng Nghị quyết về hợp tác ASEAN - Liên hợp quốc. Sự chuẩn bị chu đáo được
tiến hành song song với công tác đàm phán và vận động đã nhận được sự ủng hộ kỷ
lục về số nước đồng bảo trợ (110 quốc gia). Nghị quyết do Việt Nam chuẩn bị đã
đạt 3 kỷ lục: thời gian thương lượng ngắn nhất, thời gian vận động ngắn nhất và
số nước đồng bảo trợ đông nhất so với các nghị quyết hợp tác giữa ASEAN và Liên
hợp quốc từ trước đến nay. Điều này càng khẳng định hơn nữa uy tín ngày càng
càng cao của Việt Nam trong cộng đồng quốc tế.
Theo đánh giá của Phó Thủ tướng, Bộ
trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam Phạm Bình Minh, một thành tựu đáng ghi nhận của
Ngành ngoại giao Việt Nam chính là công tác quảng bá hình ảnh Việt Nam ra thế
giới tiếp tục được triển khai. Không để đại dịch Covid-19 ngăn cản công tác
triển khai, lực lượng báo chí đối ngoại Việt Nam đã nhanh chóng tận dụng lợi
thế của nền tảng số, tăng cường quảng bá hình ảnh của đất nước ra nước ngoài.
Phương thức mới này đã đạt được kết quả vượt xa so với các phương thức cũ.
Đối với vấn đề Biển Đông, tại các hội
nghị quốc tế và ASEAN, Việt Nam đã nêu vấn đề Biển Đông và
tạo được sự đồng thuận, ủng hộ trong khu vực cũng như bên ngoài. Song song với
đó, Việt Nam vẫn tiếp tục các hoạt động kinh tế bình thường trên những vùng biển
hợp pháp trong vùng đặc quyền kinh tế của mình. Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Ngoại
giao Phạm Bình Minh cho biết:
“Năm 2020 tình hình tiếp tục diễn biến
phức tạp với nhiều yếu tố bất ổn định. Tuy nhiên, Việt Nam tiếp tục duy trì được
môi trường ổn định ở Biển Đông thông qua nhiều biện pháp, trong đó các biện
pháp về quan hệ song phương với các nước. Tại tất cả các cuộc trao đổi của lãnh
đạo cấp cao với các nước cũng như tiếp xúc của các cấp, vấn đề biển Đông
luôn được Việt Nam nêu với mục tiêu, yêu cầu đảm bảo được môi trường hòa bình, ổn
định tại Biển Đông, tôn trọng luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước của Liên
hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS 1982), không có các hành động làm phức tạp
tình hình tại Biển Đông.”
Trong giai đoạn sắp tới, hoạt động đối
ngoại đa phương của Việt Nam sẽ tập trung vào việc đảm nhận vai trò rộng lớn
hơn trên mọi phương diện trong ASEAN và Hội đồng bảo an Liên hợp quốc;
tham gia định hình cấu trúc, cơ chế, luật chơi mới; liên kết kinh tế sâu rộng,
gắn chuyển đổi số và phát triển bền vững; hoàn tất các cam kết quan trọng như
Tầm nhìn ASEAN 2025 và sau 2025, Tầm nhìn APEC 2040, các cam kết trong các hiệp
định thương mại tự do, Chương trình nghị sự đến 2030 của Liên hợp quốc về phát
triển bền vững, Thỏa thuận Paris về biến đổi khí hậu v.v.
35 năm - đối với một quốc gia, đây có
thể không phải là khoảng thời gian dài - nhưng đối với Việt Nam, đó là cả một
quãng thời gian “Đổi mới” và chuyển mình lịch sử. Từ một quốc gia nghèo nhất
trên thế giới, Việt Nam đã khẳng định vị thế mới trên trường quốc tế, trở thành
thành viên tích cực của hơn 70 tổ chức khu vực và quốc tế và hiện có quan hệ
với hơn 500 tổ chức phi chính phủ. Với những thành tựu trong 35 năm qua, một đất
nước Việt Nam đổi mới, năng động và liên tục phát triển sẽ trở
thành “điểm sáng” trên bản đồ thế giới./.
Taras Ivanov (Sputnik
Vietnam)